bò biển ở việt nam

Image captionTàu ngư dân Việt Nam và tàu Hải cảnh Trung Quốc (hình minh họa) Chỉ vài ngày sau khi Bộ Ngoại giao Mỹ lên tiếng phản ứng về hành vi được cho là Trung Quốc gây “quan ngại nghiêm trọng” trên Biển Đông, hôm 09/4/2020, Bộ Quốc phòng Mỹ ra tuyên bố chỉ trích hải Trung Quốc Câm Nín - Đường Lưỡi Bò Bị Cắt Đứt Bỡi BẰNG CHỨNG THÉP Về Chủ Quyền Biển Đảo Việt NamCảm ơn các bạn đã xem video!Nếu thấy hay các Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết ASEAN và Trung Quốc bày tỏ mong muốn sớm thông qua một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông thực chất, hiệu lực và phù hợp với luật pháp quốc tế. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng. (Ảnh: Lâm Khánh/TTXVN Tại cuộc họp, ASEAN và Trung Quốc đã trao đổi tình hình Biển Đông, việc thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và việc xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); khẳng định tầm quan trọng của hoà bình, an ninh, ổn định, tự do hàng Đường lưỡi bò là gì? Theo như trên bản đồ, đường lưỡi bò được Trung Quốc nhận định là đường này xuất phát từ Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam kéo dài xuống phía Nam, đi qua vùng biển hai quốc gia Malaysia và Philippin, kết thúc ở phía Đông Nam của Đài Loan. Advertisement Vay Tiền Online Từ 18 Tuổi. Trước đây, chúng từng được phát hiện ở nhiều vùng nước ven bờ và các đảo của Việt Nam như Khánh Hoà, đảo Phú Quý, Phú Quốc… nhưng theo tài liệu và phỏng vấn ngư dân các vùng ven biển, bò biển chỉ còn ở Côn Đảo và Phú Quốc. Mặc dù khó nói chính xác, nhưng nhiều ngư dân cũng như chuyên gia đều nhận định quần thể dugong hiện tại ở Côn Đảo chỉ còn 8 – 10 con năm 2001. Số lượng suy giảm trầm trọngBò biển có thân hình con thoi, đuôi dạng vây nằm ngang, chi trư­ớc có hình mái chèo và dùng để bao con cho bú. Đây là loài thú biển duy nhất ăn cỏ, con đực dài 2,5 – 3,15m, con cái nhỏ hơn 2,4 – 3 m. Chúng thường sống ở vùng ven bờ biển, nơi có nhiều thức ăn là rong biển, cỏ biển, trung bình một con bò biển ăn hết 25 kg cỏ ngư dân lớn tuổi ở Côn Đảo cho biết, quần thể bò biển ở Côn Đảo đã tồn tại từ lâu đời, đến sau năm 1975 vẫn còn khá nhiều ước chừng vài chục con nhưng chúng thường vô tình dính lưới đánh cá hoặc bị đánh bắt để ăn thịt và làm thuốc nên nay chỉ còn rất ít. Nhiều ngư dân xác nhận gần đây có nhìn thấy sự xuất hiện bò biển ở ven biển, đặc biệt là vùng biển vịnh Côn Sơn, bãi Đất Dốc, vịnh Bến nhiều chuyên gia, bò biển đã bị đánh bắt và giết thịt từ trước khi Vườn Quốc gia Côn Đảo được thành lập năm 1993. Những điều tra tiến hành năm 2004 và 2005 cho thấy, từ năm 2000 – 2002 có bốn con bò biển bị chết không rõ nguyên nhân. Đe doạ lớn nhất đối với bò biển là bị đánh bắt ngẫu nhiên và mắc kẹt trong lưới vét và lưới rê chiếm tới 72% trong tổng số ngư cụ của nghề cá nước ta. Sự bùng nổ của du lịch và nhất là việc khai thác thuỷ sản mang tính huỷ diệt dùng thuốc nổ, chất độc, nạo vét kênh rạch, xây dựng các bến cá cầu cảng và nhất là việc xả thải từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp làm môi trường biển bị ô nhiễm cũng là nguyên nhân suy giảm loài bò biển... Thêm vào đó, diện tích cỏ biển thu hẹp dần, lá cỏ biển luôn bị lớp trầm tích, tảo và động vật phủ bám khiến cỏ biển quang hợp kém và suy thoái đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới quần thể bò kế hoạch bảo tồnĐây là loài có nguy cơ tuyệt chủng cao được ghi nhận trong Sách đỏ Việt Nam nên việc khai thác bò biển bị cấm triệt để tại Vườn Quốc gia Côn Đảo. Dự án phát triển Vườn Quốc gia Côn Đảo, tầm nhìn đến năm 2020 nhấn mạnh việc quản vệ các loài động vật biển quý ở vùng nước nông trong đó có bò biển. Trong kế hoạch bảo tồn loài sinh vật biển này, việc phân vùng bảo tồn nghiêm ngặt thảm cỏ biển và nơi cư trú, kiếm ăn của bò biển là điều cấp thiết. Hàng năm, Ban Quản lý Vườn Quốc gia Côn Đảo tổ chức cho các cán bộ khoa học thực hiện chương trình nghiên cứu khoa học cơ sở, phục vụ cho quản lý, bảo tồn. Một số chuyên đề nghiên cứu trong đó có công tác nghiên cứu đa dạng sinh học biển, giám sát các rạn san hô, đặc biệt nghiên cứu chuyên sâu bảo tồn rùa biển, bò biển, trai tai tượng... được quan tâm. Vườn Quốc gia cũng phối hợp với các cá nhân, tổ chức khoa học bảo tồn trong và ngoài nước nâng cao chương trình nghiên cứu khoa học, nhờ đó, giá trị đa dạng sinh học tại Côn Đảo được phát sự cấp thiết của việc bảo vệ loài bò biển, cuối tháng 3 vừa qua, Tổng lãnh sự quán Mỹ tại đã phát động cuộc thi thiết kế logo cho chiến dịch "Hãy bảo vệ loài bò biển". Bò biển, nghe thật lạ phải không? Bò biển hay dugong, còn được gọi là cá cúi hay cá nàng tiên, là một động vật biển kích cỡ trung bình. Tuy ngư dân Việt thường gọi chúng là “cá” những thực ra đây là loại động vật có vú sống ở biển. Một điều thú vị nữa đó là tương truyền, các thủy thủ phương Tây khi thấy bò biển dưới nước, họ tưởng rằng chúng là người nên mới sinh ra những truyền thuyết về “nàng tiên cá” hay “mỹ nhân ngư” thuở xưa. 1. Cùng hiểu về bò biển Bò biển trông như thế nào nhỉ? Bò biển là loài động vật có vú sống dưới biển, da màu xám, có mối liên hệ khá gần gũi với loài voi. Không như các loài động vật trên cạn như bò hay thỏ, bò biển không có nhiều lông. Da của bò biển nhẵn, chỉ có vài sợi lông rải rác trên mặt da. Đầu chúng tròn, hai mắt nhỏ và mõm lớn. Các chi của chúng giống như mái chèo và không có móng. Một con bò biển trưởng thành dài khoảng 2,7m - 4m và nặng khoảng từ 250 đến 300kg. Bò biển con mới đẻ đã dài khoảng 1m và nặng 20-35kg. Một chú bò biển bơi trong đại dương. Ảnh IUCN[1] Bò biển bơi bằng cách chuyển động chiếc đuôi rộng của mình theo chiều lên xuống. Nó thay đổi hướng bơi bằng hai chi trước. Chúng bơi chậm, tốc độ khoảng 10km/giờ - ngang với vận tốc của một chiếc xe đạp. Tuy bơi chậm, song bò biển có thể di chuyển đến những khoảng cách rất xa – có thể lên đến 600 km chỉ trong một vài ngày. Nhiều bằng chứng về bò biển sống ở các vùng ranh giới nước ta, gần Kiên Giang phía Nam và Quảng Ninh phía Bắc, cho thấy bò biển có khả năng di cư xuyên biên giới.[2] Bò biển giao tiếp với nhau bằng những tiếng kêu khe khẽ, âm thanh có âm vực cao hay những âm thanh giống như tiếng chó sủa. Bò biển ăn gì? Bò biển là loài ăn thực vật. Thức ăn ưa thích của bò biển là cỏ biển. Hằng ngày chúng phải ăn một lượng cỏ biển rất lớn khoảng 28-40 kg cỏ biển mới có đủ năng lượng. Bộ xương nặng giúp bò biển chìm dưới nước khi tìm và ăn cỏ biển. Khi ăn, bò biển chúc mõm xuống dưới theo hướng của thức ăn. Chúng sử dụng hai hàm răng bằng để nhổ và nhai cỏ biển. Bò biển sinh trưởng như thế nào? Bò biển mang thai từ 13-15 tháng. Bò biển con được sinh ra dưới nước và bơi lên trên mặt nước để hít thở không khí lần đầu tiên. Bò biển con bú sữa mẹ và sẽ luôn theo mẹ cho đến khi nó được 1 hoặc 2 tuổi. Sau khi sinh, bò biển con cũng mau chóng ăn được cỏ biển. Tuổi trưởng thành của chúng là từ 6-17 tuổi. Mỗi lứa bò biển cách nhau khoảng 3-7 năm. Bò biển là loài có tuổi đời cao. Trong điều kiện môi trường thuật lợi, chúng có thể sống đến 70 năm hoặc lâu hơn thế. Bò biển sống ở đâu? Bò biển là loài sống đơn lẻ, tuy nhiên đôi khi chúng cũng sống tập trung theo đàn. Bò biển thích sống tại vùng vịnh nông và rộng, vùng nước ấm, những kênh rạch có rừng ngập mặn bao phủ, những nơi được che kín tại các đảo lớn gần bờ. Đây cũng chính là những nơi thường có thảm cỏ biển rộng lớn. Bò biển được tìm thấy ở các vùng biển trên 37 nước và lãnh thổ dọc từ Tây Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương.[3] 2. Bò biển bị sao thế? Số lượng bò biển đang bị suy giảm đáng kể ngay cả tại những nơi đã từng tập trung nhiều. Bò biển đã biến mất tại những nơi như Đài Loan, đảo Malpes... Bò biển nằm trong Sách đỏ quốc tế, ở nhóm có nguy cơ tuyệt chủng cao. Trong “Sách đỏ Việt Nam” bò biển nằm trong danh sách Cực kỳ nguy cấp, là loài cấm khai thác dưới mọi hình thức. Trước đây, bò biển ở Việt Nam phổ biến ở vịnh Hạ Long, vùng ven biển Khánh Hòa, Côn Đảo, Phú Quốc. Hiện nay, ước tính chỉ còn khoảng 10 con sinh sống tại Côn Đảo, và khoảng 100-300 con sinh sống tại Phú Quốc, hòn đảo lớn nhất nước ta.[4] 3. Tại sao vậy nhỉ? Một trong những lý do chính dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng của bò biển tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới, đo là vì tình trạng săn/đánh bắt quá mức. Ngoài ra, ô nhiễm biển dẫn đến sự cạn kiệt cỏ biển – là nguồn thức ăn chính của bò biển cũng là một trong những nguyên nhân đẩy bò biễn tới bờ vực diệt vong.[5] Ở Việt Nam và các nước lân cận, nhiều phương pháp đánh bắt hủy diệt và bất hợp pháp tại các hệ sinh thái cỏ biển đã ảnh hưởng rất lớn đến các thảm cỏ biển và do đó đe dọa đến sự tồn tại của bò biển. Tuy nhiên, nghiêm trong nhất đó là vấn đề đánh bắt bò biển, diễn ra không chỉ ở Việt Nam mà còn ở rất nhiều nơi trên thế giới. Thịt bò biển được cho là rất có giá trị. Ngoài ra, cũng giống như loài voi, chúng còn bị bị đánh bắt để lấy đi cặp ngà thường là ở dugong đực trưởng thành để làm đồ trang trí, trang sức,… Một cặp ngà như vậy có thể được bán với giá 10 triệu đồng Việt Nam, tức là khoảng 650 đô la Mỹ. [6] Ngoài ra, ô nhiễm biển dẫn đến sự cạn kiệt cỏ biển – là nguồn thức ăn chính của bò biển cũng là một trong những nguyên nhân đẩy bò biễn tới bờ vực diệt vong. [7] Xác bò biển với vòng dây lưới quanh cổ tại khu bảo tồn biển Phú Quốc, Kiên Giang 2014.[8] Bò biển cũng hay bị chết do mắc vào các loại lưới rê, lưới quây của ngư dân hoặc lưới bảo vệ tránh cá mập tại các bãi biển. Tàu bè chạy nhanh ở những vùng biển nông có thể va vào, làm bị thương hoặc giết chết bò biển. Rác thải có thể làm bị thương bò biển. Chúng bị mắc vào những lưới cũ, dây câu và các loại dây buộc bị ném xuống biển, hay bị những mảnh thủy tinh sắc và rác thải cứng lẫn trong các thảm cỏ biển cứa vào thân thể. 4. Cùng hành động Chú ý không làm ảnh hưởng đến cỏ biển khi thả neo tàu thuyền hay khi đi tàu thuyền qua khu vực sống của bò biển. Ủng hộ việc thành lập các khu bảo tồn biển để bảo vệ môi trường sống cho bò biển. Bạn cũng có thể tham gia các hoạt động bảo tồn để hiểu thêm về bò biển khi có cơ hội. Nói cho mọi người về bò biển và lý do tại sao chúng cần được bảo vệ. Tuy là một loài sinh vật rất dễ thương nhưng còn rất nhiều người chưa biết về bò biển đấy! Bò biển Dugong hay ở Việt Nam gọi là cá cúi, loài sinh vật biển khổng lồ ăn chay, có quan hệ họ hàng với lợn biển. Cả hai đều có quan hệ họ hàng với loài voi, mặc dù chúng với loài động vật khổng lồ trên cạn này hoàn toàn không giống nhau về ngoại hình hay hành vi. Bò biển là một loài động vật biển có vú, ăn cỏ, sống theo bầy đàn. Bò biển phát triển đến chiều dài tối đa là 4 m và nặng 270 kg. Bò biển có thể sống đến 70 năm. Sở dĩ nó được gọi là bò biển vì chúng sử dụng môi trên chắc khỏe để gặm cỏ biển. Bò biển là loài Sirenian có họ hàng với lợn biển. Mặc dù chúng giống động vật giáp xác cá voi, cá heo, bò biển và lợn biển được cho là hậu duệ của động vật có vú trên cạn khiến chúng có quan hệ họ hàng gần với voi hơn là cá voi. Bò biển chỉ sống ở vùng nước ven biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương từ Đông Phi đến Biển Đỏ và Australia. Bò biển gặm cỏ dưới nước cả ngày lẫn đêm. Chúng sử dụng chiếm mõm tua tủa nhạy cảm và đôi môi thô ráp để cắn chặt và nhổ rễ của cỏ biển. Những chú bò biển dugong này có thể lặn dưới nước trong khoảng sáu phút trước khi nổi lên. Đôi khi chúng thở bằng cách “đứng” bằng đuôi và ngoi đầu lên trên mặt nước. Bò biển thường dành phần lớn thời gian ở một mình hoặc theo cặp, mặc dù đôi khi chúng được nhìn thấy tụ tập thành đàn lớn cả trăm con. Bò biển sống ở đâu? Bò biển Dugong sống trên vùng biển của khoảng 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp Ấn Độ Dương – Tây Thái Bình Dương. Chúng sống chủ yếu tại những vùng có các đồng cỏ biển ở ven biển. Mật độ đông nhất được tìm thấy ở những vùng nước rộng, nông ví dụ như các vịnh, kênh ngập mặn, đảo ven bờ, rạn san hô. Vùng biển phía bắc nước Úc nằm giữa Vịnh Shark và Vịnh Moreton được cho là nhà của bò biển Dugong. Bò biển sinh sản như thế nào? Bò biển sinh sản thông qua thụ tinh bên trong và bò biển cái sẽ đẻ một con con sau một năm mang thai. Con bò mẹ sẽ giúp con non của nó vươn lên mặt nước và thở lần đầu tiên trong đời. Một con non vẫn ở gần mẹ trong khoảng 18 tháng, đôi khi con non được cưỡi trên tấm lưng rộng của mẹ. Những con vật uể oải này trở thành mục tiêu cho những gã thợ săn ven biển. Chúng được săn bắt để lấy thịt, dầu, da, xương và răng. Bò biển hiện được bảo vệ hợp pháp trong toàn bộ phạm vi của chúng, nhưng quần thể của chúng vẫn ở trong tình trạng báo động. Một số người tin rằng bò biển chính là nguồn cảm hứng cho những câu chuyện cổ về nàng tiên cá. Bò biển Steller đã tuyệt chủng Steller là loài bò biển có họ hàng gần với bò biển dugong và lợn biển. Bò biển Steller là loài duy nhất khác trong họ Dugongidae vào thời hiện đại, nhưng nó đã bị săn bắt đến mức tuyệt chủng bởi những người thợ săn và thám hiểm vào những năm 1700. Trước đây, nó là một trong những loài động vật biển có vú lớn nhất sau cá voi, bò biển Steller sẽ không bao giờ sống lại. Loài sinh vật biển này là một ví dụ điển hình về những gì có thể xảy ra nếu việc săn bắn hoặc đánh cá xảy ra ở mức độ không kiểm soát. Bò biển Dugong đang bị đe dọa do mất hoặc suy thoái môi trường sống của cỏ biển do sự phát triển ven biển hoặc các hoạt động công nghiệp gây ô nhiễm nước. Nếu không có đủ cỏ biển để ăn thì bò biển không thể sống và sinh sản bình thường. Điều này có nghĩa là việc bảo tồn các sinh cảnh biển nước nông của chúng là rất quan trọng. Hơn nữa, chúng cũng thường trở thành nạn nhân của việc đánh bắt cá hoặc tình cờ vướng vào lưới đánh cá. 337 ViewsBò biển là động vật sống chủ yếu vùng nước mặn, hiện nay có rất nhiều loại đã tuyệt chủng. Tuy là một loài có kích thước lớn nhưng chúng không ăn thịt mà chủ yếu chỉ ăn cỏ biển. Ngày nay do khai thác hải sản quá mức, hơn nữa việc thả neo làm ảnh hưởng tới cỏ biển. Chúng vừa mất đi nguồn thức ăn lại dễ sa vào lưới ngư dân nên số lượng ngày càng giảm. Giới thiệu chungGiới thiệu về đặc điểmMôi trường sống và thức ănSinh sản và sinh trưởngNguy cơ tuyệt chủng caoCần được bảo tồn Giới thiệu chung Con bò biển danh pháp khoa học là Dugong hay còn gọi với tên mỹ miều là cá nàng tiên. Ngoài ra chúng cũng được gọi tên khác là cá cúi thuộc cùng bộ hải ngưu còn gọi là Sirenia. Tuy được gọi là cá nhưng thực chất chúng là loại động vật có vú ở môi trường biển cả. Sở dĩ chúng được gọi là nàng tiên cá hay mỹ nhân ngư là bởi các thủy thủ thuở xưa. Khi họ đi đánh bắt hải sản, gặp loài này và lầm tưởng chúng là người sống dưới đại dương. Giới thiệu về đặc điểm Cá bò biển thuộc loài động vật có vú sống ở đáy đại dương, quan hệ khá gần với voi. Chúng có một là da nhẵn bóng màu xám không có lông ở thân, chỉ có vài sợi trên mặt. Phần đầu của chúng rất tròn với chiếc mõm lớn và đôi mắt nhỏ và các chi không có móng. Các chi này có hình dạng như chiếc mái chèo nhưng không phải công cụ chính giúp chúng di chuyển. Loài này di chuyển chính nhờ sự chuyển động của chiếc đuôi rộng bằng cách quẫy lên xuống đều đặn. Hai chi trước có tác dụng giúp chúng điều chỉnh hướng di chuyển, lên xuống rẽ trái hoặc rẽ phải. Tốc độ bơi của chúng chậm, thong thả với vận tốc khoảng 10 km/h bằng với tốc độ xe đạp. Tuy vận động di chuyển chậm nhưng mỗi lần quẫy đuôi thì chúng lại tới một khoảng cách khá xa. Chính vì vậy mà chúng có thể di chuyển tới hơn 600 km liên tục chỉ trong một vài ngày. Nhiều sự khám phá đã cho rằng ở nước ta cũng có loài bò biển Phú Quốc từng xuất hiện. Khám phá này cho thấy khả năng loài này có thể di chuyển và di cư xuyên đường biên giới. Một con trưởng thành có kích thước trung bình khoảng từ 2,7 đến 4 mét, nặng 250 tới 300 kg. Và con con khi mới sinh thì cân nặng từ 20 đến 35 kg và chiều dài khoảng 1 m. Loài này giao tiếp qua tiếng kêu lúc thì kiểu chó sủa lúc thì âm cao hay tiếng rên khẽ. Môi trường sống và thức ăn Bò biển là động vật lớn sống đơn lẻ độc lập nhưng đôi khi chúng cũng tập hợp thành đàn. Chúng thường sống ở môi trường nước ấm, những vùng rộng và nông hay kênh rạch và rừng ngập mặn. Đây đều là những nơi được phủ kín bởi các đảo lớn và có các thảm cỏ biển rất lớn. Chúng phân bố từ tây Thái Bình Dương cho tới Ấn Độ Dương tại vùng biển của 37 quốc gia. Tuy là một động vật lớn nhưng chúng lại không săn mồi mà thức ăn chủ yếu là cỏ biển. Để cung cấp đủ năng lượng, mỗi ngày trung bình một con phải ăn tới 28 đến 40 kg cỏ. Khi gặm cỏ miệng của chúng chúi xuống dưới, sử dụng hàm răng để nhổ cỏ và nhai tại chỗ. Loài này có một bộ xương nặng giúp chúng có thể chìm sâu xuống đáy để tìm kiếm thức ăn. Sinh sản và sinh trưởng Loài động vật này sinh ra dưới nước rồi sau đó chúng sẽ ngoi lên để hít thở không khí. Trung bình con cái sẽ mang thai trong khoảng từ 13 đến 15 tháng và nuôi con bằng sữa mẹ. Những con con sẽ bú và được nuôi dưỡng bằng sữa cho đến khi chúng được 1 tới 2 tuổi. Và sau đó thì chúng cũng sẽ nhanh chóng được ăn cỏ biển như những con cùng đồng loại khác. Độ tuổi trưởng thành của loài này là khoảng từ 6 đến 17 tuổi và chúng có tuổi đời cao. Nếu sống trong môi trường tự nhiên thuận lợi thì chúng có thể sống tới 70 tuổi hoặc lâu hơn. Mỗi một lứa đẻ của con cái thông thường sẽ cách nhau khoảng từ 3 năm cho tới 7 năm. Nguy cơ tuyệt chủng cao Hiện nay số lượng bò biển ngày càng bị suy giảm một cách nhanh chóng và rất đáng báo động. Kể cả những nơi tập trung loài này nhiều như đảo Malpes hay Đài Loan cũng suy giảm đáng kể. Chúng đã được liệt vào Sách đỏ quốc tế, là loài cần được bảo tồn gấp và cấm đánh bắt. Ở nước ta số lượng loài này còn rất ít, theo thống kê ở Côn Đảo có khoảng 10 con. Và nhiều nhất là ở Phú Quốc khoảng 100 đến 300 con, đây là đảo đa dạng sinh vật nhất. Nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm này ở Việt Nam nói riêng cũng như thế giới nói chung. Là do dự đánh bắt và săn lùng quá nghiêm trọng, không có sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ. Sở dĩ chúng bị săn lùng nhiều như vậy là thịt chúng có giá trị rất lớn trên thị trường. Hơn nữa chúng được ví như một loài voi dưới biển nên cặp ngà của chúng cũng bị lấy đi. Cặp ngà này thường chỉ có ở loài đực và được dùng là đồ trang trí nội thất trong nhà. Giá trị của cặp ngà này rất lớn, vào khoảng 650 đô la Mỹ tương đương khoảng 10 triệu đồng. Ngoài ra chúng ta cũng biết hiện nay tình trạng ô nhiễm môi trường biển cũng diễn ra nghiêm trọng. Dẫn đến nguồn thức ăn chính của loài này là cỏ biển cũng bị ảnh hưởng một cách đáng kể. Hơn nữa việc đánh bắt hải sản cũng khiến chúng dễ bị sa và mắc vào lưới của ngư dân. Hoặc mắc lưới bảo vệ tại các bờ biển để tránh các loại động vật nguy hiểm như cá mập. Rác thải và tàu bè đi lại cũng có thể khiến chúng bị thương hoặc có thể giết chế chúng. Nhất là những mảnh lưới cũ của ngư dân biển hay các loại dây câu, dây buộc bị ném xuống. Rất nhiều những rác thải cứng và thủy tinh được ném xuống gây thương tích cho sinh vật dưới biển. Vậy chúng ta cần phải làm gì để để có thể bảo vệ bò biển tránh nguy cơ tuyệt chủng. Trên thế giới đã thành lập rất nhiều những khu bảo tồn nhằm bảo vệ môi trường sống cho chúng. Ngoài ra tuyên truyền các hành động, các chương trình về giới thiệu và bảo tồn các loài động vật. Khuyến khích những ngư dân không đi qua lại hay thả neo tại những nơi tập trung nhiều loài này. Tham khảo Cá Basa nuôi nhiều ở tỉnh nào phân biệt với cá tra ra sao Cá bạc má đặc điểm nhận dạng và các món ngon từ nó Cá dứa là cá gì ? Làm món gì ngon ? Mua ở đâu, giá bao nhiêu Bò biển còn được gọi là cá cúi, là loài động vật biển kích cỡ trung bình. Có nhiều truyền thuyết kể lại rằng trong đêm, các thủy thủ trên biển bị quyến rũ bởi tiếng hát mê hồn từ đại dương của nàng tiên cá hay mỹ nhân ngư, chính là ám chỉ loại bò biển này. Xem Nhanh1. Bò biển là con gì ?2. Mô tả bò Kích thước Đặc điểm nhận biết3. Tập tính của bò biển4. Bò biển sinh trưởng như thế nào?5. Bò biển sống ở đâu?6. Số lượng bò biển trong những năm gần đây7. Tại sao số lượng bò biển bị giảm nghiêm trọng? Do tình trạng săn Do ô nhiễm môi trường8. Cùng hành động 1. Bò biển là con gì ? Bò biển, hay cá cúi, cá nàng tiên có tên khoa học là Dugong là một loài động vật có vú sống ở vùng cận duyên hải biển nhiệt đới. Có mối quan hệ khá gần gũi với loài voi. Là loài thú biển quý hiếm và có giá trị nghiên cứu khoa học. Bò biển góp phần vào điều hoà số lượng thực vật biển trong môi trường tự nhiên và cân bằng sinh thái. Chúng ăn cỏ biển và các loài thực vật biển khác. Và chỉ sống dưới nước, thi thoảng nổi lên mặt nước để thở chứ không lên bờ bao giờ. Do có thân hình to lớn và di chuyển chậm chạp, nên bò biển thường dễ bị mắc vào lưới cá của ngư dân. Không như các loài thú trên cạn, chúng không có nhiều lông. Đầu chúng tròn, mõm lớn và hai mắt nhỏ. Các chi của chúng giống như mái chèo và không có móng. 2. Mô tả bò biển Kích thước Một chú bò biển trưởng thành nặng từ 250kg đến 300kg, có con nặng tới 1600kg. Dugong đực có chiều dài từ 2,5–3,15m có con dài tới 5,83m, dugong cái nhỏ hơn, thường từ 2,40–3,00m. Cá cúi con mới đẻ đã dài khoảng 1m và nặng 20-35kg. Cá cúi có thân hình con thoi. Phần đầu của nó khá lớn so với tỷ lệ thân mình. Toàn thân được bao bọc bởi một lớp chất béo dày sụ tương tự với cá voi, làm chúng trở nên tròn trịa, múp míp. Khi nhìn từ xa, da của cá cúi có màu nâu và rất láng mịn. Nhưng nếu nhìn thật kỹ sẽ thấy bề mặt da chúng vô cùng thô nhám. Các lỗ chân lông to, có những sợi lông mọc tủa ra, tuy ngắn nhưng lại rất dày. Bò biển có thân hình mập mạp uôi dạng vây nằm ngang thay vì dọc đứng như loài cá. Hai chi trước nhỏ và ngắn, có hình dạng như hai mái chèo. Giúp chúng chuyển hướng khi bơi và còn được dùng để “bồng” con cho bú giống như người. Dugong bơi bằng cách chuyển động cái đuôi rộng của mình theo chiều lên xuống. Nó bơi chậm với vận tốc khoảng 10km/h – bằng với tốc độ đi xe đạp. Tuy bơi chậm, nhưng chúng có thể di chuyển rất xa – có đi 600km chỉ trong một vài ngày. Đặc điểm nhận biết Bò biển có mõm nhô ra phía trước, hai lỗ mũi ở gần đầu. Môi trên có dạng móng ngựa, có nhiều lông cảm giác. Chúng không có vây lưng, vây đuôi lõm ở giữa tạo thành rãnh hình chữ V giống với cá heo. Mắt nhỏ, tròn, có màu thẫm và có nắp đậy. Tai của chúng là 2 lỗ nhỏ ở hai bên đầu không có vành tai. Da chúng có màu hơi xám và sáng dần về phía mặt bụng và khi mới sinh hay còn nhỏ có da màu nâu thẫm. Lông bò biển phân bố lưa thưa trên lưng, phần bụng có lông dài nhưng ít hơn. Lông xúc giác rất nhạy cảm và phát triển. Cá cúi có hàm răng rộng và bằng phẳng, thích hợp cho việc ăn tảo. Chúng có sáu cặp răng hàm, được xếp trên mỗi mặt của hai hàm ngay lối vào của miệng. Ở những con đực trưởng thành hoặc ở con cái già trên 40 tuổi có hai răng nanh ngắn. Dugong đực đôi khi mọc răng dài tựa như ngà. Vì thức ăn là thực vật có ít chất dinh dưỡng nên chúng có hệ thống tiêu hóa rất dài đến 45m, để có thể hấp thụ tối đa các chất trong thức ăn. Dạ dày bò biển giống với dạ dày của con bò trên cạn. Từ đó chứng tỏ nguồn gốc xuất xứ xa xưa của loài thú biển này là động vật ăn cỏ trên cạn. Sau đó di chuyển xuống biển sinh sống. 3. Tập tính của bò biển Cá cúi con thường bơi sau lưng mẹ Cá cúi giao tiếp với nhau bằng những tiếng kêu khe khẽ, âm thanh giống như tiếng chó sủa hay âm thanh có âm vực cao. Dugong thích sống theo bầy đàn đông đúc. Tuy nhiên với số lượng ít ỏi còn lại hiện này thì thật là khó khăn. Chúng dành phần lớn thời gian cho việc ăn. Thức ăn yêu thích của chúng là cỏ biển, đôi khi ăn cả Thuỷ tức và Hải sâm. Mỗi ngày một chú bò biển ăn hết trung bình 25kg – 40kg cỏ mới có đủ năng lượng. Bộ xương nặng giúp cá cúi chìm dưới nước khi tìm kiếm và ăn cỏ biển. Khi ăn, chúng chúc mõm xuống dưới theo hướng của thức ăn. Cá cúi sử dụng hai hàm răng bằng để nhổ và nhai cỏ biển. Tuy có thị lực rất kém, nhưng khứu giác của bò biển lại rất nhạy bén. Vì có thói quen cuối xuống cát tìm kiếm thức ăn nên nơi nào chúng đi qua cũng tạo nên những con đường mòn cát trống. Nhờ vậy mà người ta phát hiện ra sự xuất hiện của nó. Cứ mỗi 3 – 7 năm, bò biển cái lại di chuyển đến vùng nước nông sinh con. Thời gian mang thai trung bình là 13 tháng 10 ngày. Dugong mỗi lần chỉ sinh một con duy nhất. Cá cúi con thường bơi sau lưng mẹ, nặng khoảng 30kg và dài chừng 1,2 m. Bú sữa mẹ trong vòng khoảng 18 tháng. Cá cúi là loài có tuổi đời cao. Trong điều kiện môi trường sống thuận lợi. Chúng có thể sống đến 70 năm hoặc lâu hơn thế. 4. Bò biển sinh trưởng như thế nào? Dugong mang thai từ 13-15 tháng. Dugong con được sinh ra dưới nước rồi bơi lên trên mặt biển để hít thở không khí lần đầu tiên. Dugong con bú sữa mẹ và sẽ luôn theo sau dugong mẹ cho đến khi nó được 1 hoặc 2 tuổi. Độ tuổi trưởng thành của dugong là từ 6 đến 17 tuổi. Mỗi lứa dugong cách nhau từ 3-7 năm. Cá cúi trưởng thành sinh dục ở độ tuổi từ 9 – 10 tuổi, đôi khi đến sau 17 tuổi. Hoạt động sinh dục của chúng diễn ra quanh năm, nhưng mùa sinh sản cao điểm là từ tháng 6 đến 9. Bò biển con bú sữa mẹ trong vài tuần đầu sau khi sinh và nhanh chóng có thể ăn cỏ. Nhưng nó vẫn còn tiếp tục bú sữa mẹ cho tới 18 tháng tuổi hoặc hơn. Chúng có thể sống đơn lẻ, từng đôi mẹ-con hoặc từng nhóm nhỏ, đôi khi sống thành đàn tới vài trăm con và có tổ chức xã hội. Xem thêm Cách cá voi sát thủ săn mồi và liệu có “săn” luôn con người? Cá ngựa – Loài cá quý hiếm với công dụng tuyệt vời Nhím biển – Nhân sâm của biển cả bạn đã biết chưa? 5. Bò biển sống ở đâu? Bò biển sống ở Phú Quốc, Côn Đảo nước ta Dugong thường sống ở các vùng vịnh rộng và nông, vùng nước ấm có nhiệt độ từ 18 – 32oC, những kênh rạch có rừng ngập mặn bao phủ hay những nơi được che kín ở các đảo lớn gần bờ. Những nơi này thường có thảm cỏ biển rộng lớn và phong phú. Cá cúi được tìm thấy ở các vùng biển của 37 quốc gia và lãnh thổ. Bò biển thường xuất hiện ở các vùng ven biển bán nhiệt đới và cận duyên nhiệt đới từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Vĩ tuyến 26 bắc và nam được xem là giới hạn của bò biển. Eo biển Torres ở Úc châu là nơi sinh sống của hơn 10000 chú bò biển. Ở nước ta, trước đây bò biển được tìm thấy ở Vịnh Hạ Long, Côn Đảo, Phú Quốc và ven biển Khánh Hoà. Nhưng hiện nay người ta chỉ thấy chúng xuất hiện ở Côn Đảo với số lượng khoảng hơn 10 con, ở Phú Quốc 100 con. 6. Số lượng bò biển trong những năm gần đây Trong những năm gần đây, việc xây dựng các công trình ven biển gia tăng, làm thu hẹp nơi sinh sống của bò biển. Ước tính diện tích phân bố của chúng ở nước ta trước năm 1990 là khoảng nhưng hiện nay còn khoảng Môi trường sinh sống của chúng ngày càng bị ô nhiễm làm cho số lượng bò biển giảm đi đáng kể. Dugong lại sinh sản rất chậm. Do đó các nhà khoa học dự đoán rằng nếu không thực hiện các biện pháp bảo vệ, bò biển có thể bị tuyệt chủng trong tương lai. Cá cúi đã biến mất ở những nơi chúng từng tập trung nhiều như đảo Malpes, Đài Loan,… Số lượng bò biển trên toàn thế giới hiện nay chỉ còn khoảng con. Trong “Sách đỏ Việt Nam”, bò biển được xếp vào danh sách Cực kỳ nguy cấp. Là loài cấm khai thác dưới mọi hình thức. Bò biển cũng được Sách đỏ Thế giới IUCN xếp vào danh sách loài sắp nguy cơ tuyệt chủng. 7. Tại sao số lượng bò biển bị giảm nghiêm trọng? Do tình trạng săn bắt Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm nghiêm trọng của dugong ở Việt Nam cũng như trên toàn thế giới là do tình trạng săn/đánh bắt quá mức. Ở Việt Nam và các nước khác trên thế giới, có nhiều phương pháp đánh bắt hủy diệt bất hợp pháp tại các hệ sinh thái trên biển. Gây ảnh hưởng rất lớn đến các thảm cỏ biển. Là nguồn thức ăn chính của bò biển. Đe dọa đến sự tồn tại của chúng. Ô nhiễm môi trường nước gây suy thoái nguồn thức ăn của bò biển Bò biển bị đe dọa bởi nạn săn bắn vì thịt của chúng nổi tiếng là rất ngon. Theo ghi nhận thực tế tại đảo Phú Quốc trong vài năm trở lại đây cho biết nhu cầu tiêu thụ thịt bò biển vẫn còn rất phổ biến. Hiện nay giá thịt dugong không có da dao động từ – Còn nếu còn da giá bán có thể lên đến Ngoài ra cặp răng nanh của bò biển với cấu trúc giống ngà voi nên cũng khiến chúng bị săn bắt. Một cặp ngà bò biển được bán với giá hơn 10 triệu đồng Việt Nam, tức vào khoảng 700 đô la Mỹ. Cá cúi cũng hay bị chết do mắc vào các loại lưới quây, lưới rê của ngư dân đánh bắt cá hoặc lưới bảo vệ tránh cá mập ở các bãi biển. Vì bơi rất chậm, nên bò biển dễ bị sa vào lưới của ngư dân đánh bắt cá. Tàu thuyền chạy nhanh ở các vùng biển nông có thể gây va chạm với bò biển. Làm bị thương hoặc giết chết chúng. Do ô nhiễm môi trường Rác thải cũng có thể làm bò biển bị thương. Chúng hay bị mắc vào các dây câu, lưới cũ hoặc các loại dây buộc bị ném xuống biển. Những mảnh vỡ thủy tinh sắc hoặc rác thải cứng lẫn trong những thảm cỏ biển có thể cứa vào thân thể làm bò biển bị thương. Không những vậy, tình trạng đô thị hóa, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Làm ảnh hưởng đến chất lượng nước ven bờ và suy thoái thảm cỏ biển. 8. Cùng hành động Bạn hãy tham gia các hoạt động bảo tồn bò biển khi có cơ hội. Ủng hộ việc thành lập các khu bảo tồn biển để bảo vệ môi trường sống cho loài cá nàng tiên này. Khi thả neo tàu thuyền hay khi đi tàu thuyền qua khu vực sống của cá cúi chú ý không làm ảnh hưởng đến cỏ biển. Tuyên truyền cho mọi người cùng bảo vệ bò biển. Tuy là một loài động vật rất dễ thương nhưng vẫn còn rất nhiều người chưa biết đến bò biển đấy! Quan trọng nhất, hãy bảo vệ môi trường, không vứt rác ra biển. Vì đó không chỉ bảo vệ được loài bò biển mà còn bảo vệ những sinh vật khác nữa đấy. Bò biển trong truyền thuyết được ví như nàng tiên cá. Do có tập tính khá độc đáo nên từ thời xa xưa người ta đã ví loài vật này như những người sống trong biển. Hy vọng bài viết này đã cung cấp cho bạn nhiều thông tin về loài động vật hiền lành, dễ thương này. Chúng ta hãy cùng chung tay bảo vệ bò biển nhé. Nguồn

bò biển ở việt nam